Thursday, November 26, 2009

Hà Trì Thi đối liên văn tập - Bài 1

Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4

1. THƠ TRÍCH TRONG

HÀ TRÌ THI ĐỐI LIÊN VĂN TẬP

荷 池 詩 對 聯 文 集



1

在 京 辰 餞 同 年 友

裴 行 走 之 綏 豐 尹

幾 番 風 月 兩 談 心

友 議 年 情 轉 更 深

器 我 昔 曾 聯 結 綬

榮 君 今 早 試 鳴 琴

承 宣 日 下 當 方 面

勤 慎 長 加 迪 寶 箴

鄭 重 車 前 無 別 話

相 期 一 路 福 星 臨

Phiên âm:

Tại Kinh thời tiễn đồng niên hữu

Bùi Hành tẩu chi Tuy Phong doãn

Kỷ phiên phong nguyệt lưỡng đàm tâm

Hữu nghị niên tình chuyển cánh thâm

Khí ngã tích tằng liên kết thụ

Vinh quân kim tảo thí minh cầm

Thừa tuyên nhật hạ đương phương diện

Cần thận trường gia địch bảo châm

Trịnh trọng xa tiền vô biệt thoại

Tương kỳ nhất lộ phúc tinh lâm

Dịch nghĩa :

Thủa tại Kinh, tiễn bạn học đỗ cùng khoa1 họ Bùi, chức Hành tẩu, đi nhậm chức tri huyện huyện Tuy Phong2

Bao phen tôi và anh cùng hóng gió ngắm trăng, chẳng nói năng gì vì lòng đã thầm hiểu nhau.

Nghĩa bạn giao du và tình bạn đỗ cùng khoa dần dà chuyển đến mức sâu đậm.

Dùng ta làm khí cụ của nhà nước thì từ xưa đã từng có dây thao để buộc người với nhiệm vụ3.

Nay anh được vẻ vang nhờ nhà vua sớm cho anh thử trổi giọng đàn cầm4

Từ nay trở đi, vâng mệnh thay vua tuyên dương đức hoá một phương.

Thì ngày càng thêm siêng năng và cẩn thận trong việc nước như lời châm5 quý báu đã dạy.

Trước xe trịnh trọng tiễn anh mà không nói lời xa nhau

Đã đến lúc mời anh lên đường là́m một Phúc tinh6, mang lại hạnh phúc cho dân chúng nơi anh trị nhậm.

Chú thích:

1. Đồng niên hữu: Ấu học cố sự Quỳnh lâm, quyển 4, chương Khoa đệ: Đồng bảng chi nhân, giai thị đồng niên = Những người thi đỗ cùng khoa, có nêu tên cùng một bảng, đều gọi là Đồng niên. Người được tặng thơ là Bùi Cạnh, đỗ cùng khoa với tác giả.

2. Huyện Tuy Phong: Thuộc phủ Ninh Thuận, tỉnh Bình Thuận. Từ doãn nhằm trỏ trưởng quan đứng đầu một địa phương, thường chỉ chức Tri phủ như Phủ doãn, Tri huyện như Lệnh doãn. Chức Hành tẩu thường ở phẩm Chánh thất (7 – 1), làm việc tại Bộ một thời gian được thăng phẩm Tùng lục (6 – 2) thì cho lãnh chức Tri huyện, phẩm Chánh lục (6 – 1). Đừng theo mặt chữ Hành tẩu mà hiểu như có kẻ đã dịch bậy là “chân sai vặt”! Tri huyện họ Bùi là ông Bùi Cạnh, bạn của tác giả.

Phẩm trật chú như trên là theo quan chế ban hành đời Minh Mệnh mà cụ Trần Trọng Kim đã ghi lại trong sách Việt Nam sử lược. Trong thực tế theo anh Trần Đình Phan, con cụ Cử Tân nói thì bố anh từ Hành tẩu đi Hậu bổ Bình Thuận, thăng Kinh lịch rồi mới thăng Tri huyện Hoài Ân, phẩm Tùng ngũ (5 – 2) rồi lên Chánh ngũ (5 – 1)

3.Thao: là dây thao (lụa to sợi) dùng buộc ấn vào người. Ấn có ba loại: Ấn vàng thao đỏ, Ấn bạc thao xanh, Ấn quan Tri huyện bằng đồng dây thao đen.

4. Đời Chu có Mật Tử Tiện làm quan tể ấp Đơn Phủ, chỉ gảy đàn cầm mà Đơn Phủ được trị an.

5. Châm: Lời dạy đạo làm quan mà quan lại phải học thuộc lòng (Theo Văn Tâm điêu long của Lưu Hiệp (465 – 520) thời Lục triều)

6. Đời Tống có Tiên Vu Sằn làm chuyển vận sứ ở Triết Đông. Tư Mã Quang bảo người rằng: “Sằn là người giỏi mà để làm quan ở bên ngoài thì chẳng nên. Nhưng vùng Tề Lỗ điêu tàn quá lắm nên phải đưa Sằn tới cứu. Sằn đúng là Nhất lộ Phúc tinh (Sao Phước của một lộ) vậy.”

Dịch thơ:

Tiễn Bùi Hành Tẩu làm Tri huyện Tuy Phong

Bao phen trăng gió hiểu lòng nhau

Bè bạn dần dà nghĩa thấm sâu

Buộc ấn xưa từng dùng lụa mộc

Thử đàn giờ sớm chịu ơn sâu

Mệnh vua tuyên hoá đương thay mặt

Châm báu thận cần hãy nhớ câu

Trịnh trọng trước xe không nói biệt

Mà đưa sao Phúc tới Nam châu

No comments: